Cấp bậc tác giả:

NETWORKING

Dùng các lệnh của Windows để kiểm tra (sự toàn vẹn của)hệ thống khi (nghi ngờ) hệ thống bị tấn công

Được viết bởi QuangIT ngày 04/09/2012 lúc 10:12 PM
Mỗi người dùng máy tính đều phải đối mặt với vấn đề những máy chạy Windows bị tấn công. Và trong một số môi trường, thì điều này xảy ra rất thường.
  • 0
  • 7148

Dùng các lệnh của Windows để kiểm tra (sự toàn vẹn của)hệ thống khi (nghi ngờ) hệ thống bị tấn công

tancong.jpeg
Mỗi người dùng máy tính đều phải đối mặt với vấn đề những máy chạy Windows bị tấn công. Và trong một số môi trường, thì điều này xảy ra rất thường. May thay, Microsoft đã xây dựng một loạt các công cụ trong Windows để các nhà quản trị cũng như người dùng có kinh nghiệm có thể phân tích chiếc máy tính của mình xem liệu nó có đang bị xâm phạm hay không. Trong hướng dẫn thủ thuật này- bao gồm 2 phần, tác giả bài viết sẽ giới thiệu năm công cụ dòng lệnh hữu ích được tích hợp (build-in) trong Windows cho mục đích này.

1) WMIC: Một thế giới mạo hiểm đang chờ 

Nó đưa ra một giao diện dòng lệnh cho Windows Management Instrumentation API cực mạnh mẽ bên trong Windows. WMIC cho phép người dùng quản trị truy cập tất cả các loại thông tin chi tiết về máy tính chạy Windows, bao gồm chi tiết các thuộc tính của hàng ngàn thiết lập và đối tượng. WMIC được tích hợp trong Windows XP Professional, Windows 2003 and Windows Vista. Để sử dụng WMIC, người dùng cần kích hoạt nó bằng cách chạy lệnh WMIC với tham số là lĩnh vực của máy mà người dùng quan tâm tìm hiểu ( thường được tham chiếu như một tên tắt trong hệ thống) Ví dụ, để biết về các tiến trình đang chạy trên máy, người dùng có thể chạy: 

C:\> wmic process 

Đầu ra của lệnh này có vẻ sẽ rất kinh khủng vì format đầu ra đã không được chỉ ra. Với WMIC, đầu ra có thể được định dạng theo vài cách, tuy nhiên 2 trong số những định dạng hữu dụng nhất cho việc phân tích khả năng hệ thống  bị tấn công là lựa chọn “list full” , chỉ ra một lượng lớn các chi tiết cho mỗi lĩnh vực của máy tính mà người dùng quan tâm và lựa chọn “list brief” , cung cấp một hàng tin cho một mục báo cáo trong danh sách các thực thể, chẳng hạn như các tiến trình đang chạy, các phần mềm tự khởi động và các chia sẽ đang có.  
Ví dụ, chúng ta có thể coi một tổng kết các tiến trình đang chạy trên máy bằng cách gõ vào: 

C:\> wmic process list brief 

Lệnh này sẽ chỉ ra tên, ID của tiến trình và độ ưu tiên của mỗi tiến trình đang chạy, cũng như các thuộc tính khác ít quan trọng hơn. Để có thông tin chi tiết hơn, ta nhập lệnh: 

C:\> wmic process list full 

Lệnh này xuất ra toàn bộ các chi tiết , gồm đường dẫn đầy đủ của mã thực thi liên quan tới các tiến trình và tham số của chúng. Khi điều tra để tìm sự lây nhiễm của máy tính, người quản trị cần xem xét từng tiến trình để xác định xem liệu chúng có sử dụng máy một cách hợp pháp, tìm kiếm các tiến trình không được mong chờ và không được biết đến bằng cách áp dụng các cổ máy tìm kiếm. 
Ngoài các tên tắt của các tiến trình, người dùng có thể xem xét quá trình khởi động để có được danh sách các phần mềm tự khởi động , bao gồm các phần mềm được khởi động trong quá trình hệ thống boot up, được xác định bởi các khóa hay thư mục auto-start registry. 

C:\> wmic process list full 

Phần lớn các malware tự chạy trên máy bằng cách thêm một dòng tự khởi động cùng với các phần mềm hợp lệ khác, có thể thuộc các công cụ antivirus và các chương trình khác trên khay hệ thống. Người dùng có thể xem các thiết lập khác trên máy với dòng lệnh WMIC bằng cách thay thế “startup” bởi “QFE” (viết tắt của “Kỹ Thuật Sửa chữa Nhanh” - Quick Fix Engineering) để thấy được mức độ được Vá (Patch) của hệ thống, với tùy chọn “share” để xem danh sách các tệp chia sẻ có trên máy và với “useraccount” để xem chi tiết vể thiết lập tài khoản người dùng. 
Một sự lựa chọn rất tiện dụng của WMIC là khả năng chạy lệnh thu thập thông tin trên cơ sở lặp lại bằng cách sử dụng cú pháp “ /every:[N]” ở cuối cùng của dòng lệnh WMIC. [N] ở đây là số nguyên, chỉ ra rằng WMIC sẽ phải thực thi lệnh được chỉ định cứ mỗi [N] giây. Bằng cách này, người dùng có thể thấy sự thay đổi trong các thiết lập của hệ thống theo thời gian, cho phép kiểm soát kỹ lưỡng đầu ra. Để sử dụng chức năng này nhằm đánh giá các process cứ sau 5 giây, người dùng cần chạy dòng lệnh: 

C:\> wmic process list brief /every:5 

Nhấn tổ hợp CTRL+C sẽ ngưng chu trình này. 

2) Lệnh net: cũ nhưng tốt

Trong khi WMIC là lệnh tương đối mới , chúng ta cũng không quên một số lệnh cũ hữu ích. Một trong những lệnh rất được ưa chuộng là “net”. Người quản trị có thể dùng lệnh này để hiển thị toàn bộ các kiểu thông tin hữu ích. 
Ví dụ, lệnh “net user” chỉ ra toàn bộ các tài khoản người dùng được xác định trên máy. Lệnh "net localgroup" sẽ chỉ ra các nhóm (groups), lệnh  "net localgroup administrators" sẽ chỉ ra các thành viên quản trị của Nhóm và lệnh “net start” cho ta xem các dịch vụ đang chạy. 
Những kẻ tấn công thường thêm users vào hệ thống hoặc chèn tài khoản riêng của chúng vào Nhóm Quản trị (administrators groups) , vậy nên việc kiểm tra đầu ra của dòng lệnh này là ý tưởng hay để xem kẻ tấn công có can thiệp vào các tài khoản người dùng trên máy không. Những kẻ tấn công cũng có thể tạo các dịch vụ độc hại trên máy, vậy nên người dùng cũng cần kiểm soát được khả năng này. 

3)Openfiles: Cái nhìn sâu xa

Có nhiều quản trị Windows không biết sức mạnh của lệnh openfiles có trong Windows. Như tên gọi của mình, lệnh này đưa ra toàn bộ những files đang được mở, chỉ ra tên những process đang tương tác với mỗi file. Lệnh này được xây dựng trong các phiên bản Windows mới , từ XP Pro tới Vista. Tương tự như lệnh lsof rất phổ biến trong Linux và Unix, nó sẽ đưa ra toàn bộ các tệp đang mở trên máy, chỉ ra tên các process và đường dẫn đầy đủ tới mổi file. Tuy nhiên điểm khác với lệnh lsof là nó không cung cấp nhiều chi tiết hơn, như số hiệu process ID, số hiệu người dùng ( user number) và những thông tin khác. 
Xét trên số lượng thông tin mà lệnh này thu thập, có thể thấy lệnh openfiles là một gánh nặng năng suất. Bởi thế nên tài khoản liên quan với openfiles bị tắt theo mặc định, nghĩa là người dùng không thể lôi được bất kỳ thông tin gì từ lệnh này cho tới khi nó được mở. Chức năng này có thể được kích hoạt bằng cách sau: 

C:\> openfiles /local on 

Người dùng sẽ cần phải khởi động lại máy, khi có lại hệ thống, ta có thể chạy lệnh openfiles như sau: 

C:\> openfiles /query /v 

Lệnh này sẽ trưng ra một đầu ra dài dòng, bao gồm tài khoản người dùng mà mỗi tiến trình (process) cùng với file đang mở mà nó chạy ở dưới. Để có thể hình dung malware đã được cài đặt như thế nào, hoặc giả kẻ tấn công có thể làm gì trên hệ thống, người dùng cần tìm những file không bình thường hoặc không mong đợi, đặc biệt những file có liên quan với những người dùng bất thường trên máy. 
Khi lệnh openfiles kết thúc, chức năng tài khoản của nó sẽ được tự tắt và hệ thống sẽ trở lại năng xuất bình thường bằng cách chạy lệnh tiếp theo và khởi động lại.

C:\> openfiles /local off 

4) Netstat: Cho tôi xem hệ thống mạng 

Bởi malware thường giao tiếp thông qua mạng, nên người dùng có thể tìm các kết nối không bình thường và không được mong chờ trên đầu ra của netstat, chạy như sau: 

C:\> netstat -nao 

Tham số tùy chọn –n chỉ cho netstat hiển thị số của máy tính, thay vì hiển thị tên máy và giao thức, và thay vì chỉ ra địa chỉ IP và số hiệu cổng TCP hoặc UDP. Tùy chọn –a để hiển thị toàn bộ các kết nối và các ports đang lắng nghe. Tùy chọn –o khi ta cần netsat hiển thị số hiệu processID của mỗi chương trình đang giao tiếp với cổng TCP hay UDP. Nếu như, thay vì TCP và UDP, bạn quan tâm ICMP, thì hãy chạy netstat như sau: 

C:\> netstat –s –p icmp

Dòng lệnh sẽ trả về thống kê (-s) của giao thức ICMP Tuy không được chi tiết như đầu ra của TCP và UDP, người dùng có thể thấy liệu máy có đang gửi ICMP traffic thông thường hay bất thường lên mạng. Một số backdoors và malware giao tiếp bằng cách sử dụng tải trọng của các thông điệp ICMP Echo, tương tự  như những gói ping thông thường vẫn thấy trên phần lớn các hệ thống mạng. 
Giống như WMIC, netstat cũng cho phép ta chạy nó cứ mỗi N giây. Tuy nhiên, thay vì sử dụng syntax của WMIC là "/every:[N]", ta chỉ cần thêm vào cuối cùng của dòng lệnh netstat dấu cách và một số nguyên. Như vậy để list ra các cổng TCP và UDP đang mở trên máy cứ mỗi 2 giây, ta nhập lệnh: 

C:\> netstat –na 2 

5) Find: Tìmcác thứ hay ho ở đầu ra (kết xuất)

Phần lớn các lệnh thảo luận ở đây cho tới giờ đều cho ra rất nhiều thông tin đầu ra, có thể khó cho ta khi cần xem và tìm thứ mình quan tâm.Tuy nhiên, Windows sẽ giúp ta. Người dùng có thể tìm trên đầu ra của lệnh bằng cách sử dụng các lệnh bên trong Windows là find và findstr. Lệnh find sẽ tìm trên một chuỗi đơn, trong khi findstr hỗ trợ tìm các regular expressions, một cách thức phức tạp hơn để chỉ ra các mẫu tìm kiếm. Do vì regular expressions được hỗ trợ bởi findstr nằm ngoài khuôn khổ bài này nên ta sẽ chỉ tập trung vào lệnh find. Mặc định, find là lệnh có phân biệt chữ in hoa và thường – ta dùng tùy chọn /i để làm cho nó không phân biệt chữ thường hay hoa nữa. 
Lệnh find cũng có khả năng đếm. Khi lệnh được kích hoạt với /c , nó sẽ đếm số hàng của đầu ra mà chuỗi cho trước có. Người dùng thường muốn đếm số lượng các hàng có trong đầu ra của lệnh để xác định có bao nhiêu tiến trình đang chạy, có bao nhiêu chương trình được khởi động từ đầu, hoặc vài thứ hay khác trên máy. Để đếm số hàng của đầu ra, ta chỉ cần pipe đầu ra của nó thông qua find /c /v”” Lệnh này sẽ đếm số lượng (/c) hàng không có hàng trống (blank line) (“”) trong nó. Bằng cách đếm số lượng các hàng không trống, lệnh này thực chất là đã đếm số lượng hàng. 
Vậy là với lệnh find, ta có thể xét toàn bộ đầu ra của mỗi lệnh mà chúng ta đã xét ở trên để có thể tìm ra gì đó hay ho. Ví dụ, để xem thông tin về tiến trình lệnh cmd.exe cứ sau mỗi giây trên máy, ta đánh: 

C:\> wmic process list brief /every:1 | find "cmd.exe" 

Hoặc, để xem xem chương trình tự khởi động nào liên quan registry hive HKLM, ta chạy: 

C:\> wmic startup list brief | find /i "hklm" 

Để đếm số các tệp đang mở trên máy mà tài khoản lệnh openfiles đang được kích hoạt, ta đánh: 

C:\> openfiles /query /v | find /c /v ""

Cứ khi nào đếm các mục theo kiểu này, ta nhớ trừ đi số hàng liên quan với đầu cột (column headers). 
Và với ví dụ cuối cùng, ta sẽ cùng xem với độ chính xác 1 giây khi nào trạng thái cổng TCP 2222 bắt đầu được sử dụng trên máy, cùng với processID sử dụng cổng. Ta chạy:

C:\> netstat –nao 1 | find "2222" 

Nghiên cứu đầu ra:

Với 5 công cụ này, người dùng có thể thu được lượng lớn thông tin về cấu hình và tình trạng an toàn của máy chạy Windows. Để sử dụng từng lệnh trong việc phát hiện sự xâm phạm thì người dùng tuy nhiên sẽ phải so sánh các thiết lập hiện thời của máy dưới sự phân tích là trạng thái “bình thường”, của máy không bị nhiễm bệnh. 
Có ba lựa chọn để thiết lập ranh giới so sánh căn bản. Thứ nhất, nếu người dùng là người có kinh nghiệm săn lùng malware, anh hay cô ta sẽ có linh cảm với những gì là đúng hay sai đối với mỗi kiểu máy, và sẽ phát hiện malware hay chỉ là sự cố bất thường dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Một cách khác, so sánh kết quả thực hiện lệnh có thể được thực hiện đối với một máy sạch, không bị nhiễm nếu ta sẵn có. Còn nếu không có, người dùng có thể phải viện đến lựa chọn thứ ba – nghiên cứu các files, các tên process, các tên file đặc trưng và các số hiệu cổng được xác định bởi lệnh này và tìm kiếm thông tin về chúng trên Internet để xác định xem chúng có là bình thường đối với một hệ thống phần cứng và phần mềm được cài trên đó, hay là liệu chúng có liên quan với một loại malware nào đó. 
Trong bài này, chúng ta đã xem xét năm lệnh bên trong rất mạnh mẽ của Windows. Ở bài tới, cúng ta sẽ xét nốt cho đủ 10 danh mục bằng cách xem xét các tính năng ít được biết đến nhưng hết sức hữu ích của các lệnh tasklist, reg và ipconfig , và không kém thú vị là vòng lặp FOR cũng như việc chạy giao diện quản trị GUIs thông qua dòng lệnh. 

Tương tác với các tiến trình bằng tasklist
Trong bài trước, chúng ta đã thấy lệnh WMIC có thể cho ta nhìn thấy những  thú vị  bên trong các tiến trình (processes) đang hoạt động. Lệnh tasklist cũng có một số tính năng hay có thể xem xét, tách ra một số thuộc tính của tiến trình mà WMIC không làm được.
Khi chạy nó không kèm tham số, lệnh tasklist chỉ ra danh sách toàn bộ các tiến trình đang chạy, hiển thị tên của chúng, số hiệu PID và các thông kê khác. Để có một đầu ra phong phú hơn nữa, ta có thể chạy như sau:

C:\> tasklist /svc 
Lệnh này cho ta thấy những dịch vụ nào đang chạy bên trong mỗi tiến trình (process). Nhiều người dùng windows không hiểu mối quan hệ giữa các dịch vụ và các tiến trình, cho rằng chúng hoàn toàn khác nhau trong khi thực chất chúng là một thực thể liên quan. Trong thực tế, mỗi dịch vụ trên máy chạy Windows đều chạy  bên trong một tiến trình, và một số tiến trình  còn có nhiều dịch vụ sống bên trong. Bởi thế, có một tới nhiều mối quan hệ giữa các tiến trình và dịch vụ mà lệnh tasklist có thể khám phá 
Một câu thần chú hữu ích khác của lệnh tasklist là:

C:\> tasklist /m 
Tham số “m” ở đây có nghĩa “modules”, hay là cách mà tasklist chỉ ra các DLLs, các thư viện mã lệnh được tải bởi các tiến trình khi chúng thực thi mệnh lệnh trên máy. Khi được khởi động theo cách này, tasklist chỉ ra từng DLL đang được tải vào tất cả các tiến trình đang chạy. Nó cung cấp cho người dùng một lượng lớn thông tin về những gì đang xảy ra trên máy của họ tại một thời điểm cho trước. Trong khi phân tích đầu ra  là một công việc đáng nản lòng, thì những thông tin này rất hữu ích cho những nhà nghiên cứu malware để xác định bản chất các tiến trình đang chạy trên máy. Khi sử dụng Google search đối với những processes và DLLs cụ thể, có thể nhận được các mô tả malware từ các  trang của nhà sản xuất phần mềm chống virus, mà trong đó chỉ ra các động cơ tấn công cùng các mẫu vật malware đó.

Lệnh reg để phân tích chi tiết registry.

Lệnh reg cho chúng ta tương tác với registry của máy bằng dòng lệnh. Thay vì sử dụng lệnh giao diện đồ họa cồng kềnh regedit để định vị thanh ghi registry, người chuyên nghiệp chỉ cần mở giao diện dòng lệnh Windows và dùng lệnh reg để đọc và cập nhật thanh ghi registry. Tuy thế, lệnh reg không cho phép duyệt thanh ghi registry một cách tương tác, người dùng cần phải biết đường dẫn đầy đủ tới các registry keys mà họ muốn xem hay thay đổi. Dù vậy, khi có đường dẫn thì sử dụng lệnh reg là cách dễ nhất để thay đổi nội dung registry.

Để xem thiết lập của một reistry key cho trước, ta dùng lựa chọn “query” của lệnh reg như sau:
C:\> reg query hklm\software\microsoft\windows\currentversion\run
Khóa thanh ghi này kiểm soát các phần mềm tự khởi động khác nhau của Windows tại thời điểm boot máy và tiếp sau khi người dùng đăng nhập vào hệ thống. Nhiều loại malware thay đổi khóa này để chắc chắn rằng chúng sẽ được khởi động khi máy khởi động lại
Để xuất ra những khóa (keys) riêng biệt hoặc toàn bộ một phân khúc của thanh ghi ra thành tệp để phân tích hoặc cài đặt trên hệ thống riêng biệt, lệnh reg hỗ trợ chức năng “reg export”   Ngoài khả năng đọc và xuất các thiết lập thanh ghi, lệnh reg có thể cập nhật các thiết lập này. Lệnh “reg add” sẽ cập nhật giá trị của các khóa đang có, hoặc tạo khóa mới nếu chúng chưa tồn tại. Lệnh “reg import” có thể nhập nhiều khóa cùng lúc.

Dùng ipconfig để phân tích DNS.
Phần lớn những người dùng Windows thực sự đều quen biết lệnh ipconfig, thường được dùng để chỉ ra các thiết lập về Mạng của máy chạy Windows. Tuy nhiên, có những tính năng hữu ích cụ thể của ipconfig mà khá nhiều người không biết –  là chức năng rất có ích để những người chuyên về an ninh biết về những năng lực của botnets hôm nay. Lệnh ipconfig có thể hiển thị DNS cache của máy tại chỗ như sau:

C:\> ipconfig /displaydns 
Kết xuất của lệnh cho ta một loạt những tên miền được cache tạm, các địa chỉ ip của chúng và time to live (tính bằng giây) của các bản ghi DNS. Nếu người dùng chạy lặp lệnh này, họ có thể thấy time to live giảm dần cho tới khi các bản ghi (records) quá hạn, hoặc được làm tươi lại. Giám sát DNS cache và giá trị time to live (TTL)  đóng một vai trò quan trọng khi điều tra fast-flux botnets, bởi botnets này sẽ sử dụng các DNS records với TTLs nhỏ để buộc phải thường xuyên cập nhật và gây rối người điều tra khi xác định vị trí server back-end quan trọng của hacker Phải thừa nhận rằng, ipconfig không có nhiều lựa chọn thú vị như những lệnh khác được giới thiệu trong bài này như tasklist và reg. Tuy nhiên việc sử dụng lệnh này là cực kỳ hữu ích.

Chạy lặp với vòng lặp FOR /R.
Đôi khi người quản trị hay chuyên gia an ninh muốn chạy một lệnh lặp đi lặp lại, có thể với khoảng cách thời gian 5 giây để có thể quan sát sự thay đổi kết xuất. Để đạt mục đích này, chúng ta có thể trông chờ vào lòng lặp FOR của Windows. Windows hỗ trợ 5 loại vòng lặp khác nhau, có thể thay đổi thông qua file integers, tên file, tên thư mục, nội dung của file và chuỗi. Chúng ta sẽ tập trung vào những vòng lặp đơn giản nhất, đặc biệt là biến FOR /L, với các vòng lặp được chỉ ra thông qua integer vì chúng có thể được dùng để tạo các lệnh chạy liên tục. Cú pháp của vòng lặp FOR /R như sau:

C:\> for /L %[var] in ([start],[step],[stop]) do [command] 
Biến [var] là biến iterator, là một ký tự đơn có thể nhận các giá trị nguyên khác nhau  tại mỗi bước của vòng lặp ,  Bạn sẽ gán giá trị ban đầu của biến, giá trị tăng dần của từng bước trong toàn bộ vòng lặp, và giá trị tối đa của nó. Cũng cần chỉ ra lệnh cần chạy tại từng bước của vòng lặp. Để minh họa, ta sẽ xem dòng lệnh sau:

C:\> for /L %i in (1,1,10) do @echo %i 
Vòng lặp này sử dụng %i là biến với giá trị ban đầu là 1. Cứ mỗi lần lặp lại của vòng lặp, %i sẽ tăng thêm 1, cho tới khi bằng 10. Khi đó, trong quá trình lặp, ta có thể in giá trị của biến thay đổi ra màn hình bằng lệnh echo. Ký hiệu @ báo cho hệ thống biết là không in bản thân câu lệnh (command) ra màn hình, như thế ta sẽ có kết xuất đẹp hơn. Chúng ta chỉ cần bảo hệ thống đếm từ 1 đến 10.
Giờ chúng ta sẽ cùng xem cách thức dùng lệnh này để làm cho lệnh tasklist chạy liên tục:

C:\> for /L %i in (1,0,2) do @tasklist
Với lệnh này, chúng ta lệnh cho máy khởi động vòng lặp với biến bắt đầu bằng 1, số đếm bằng không, cho tới khi đạt giá trị bằng 2. Vòng lặp này sẽ đếm hoài không ngừng nghỉ, cho tới khi chúng ta gỏ CTRL-C để dừng nó lại. Như vậy chúng ta chỉ việc chạy lệnh tasklist tại mỗi lần lặp. 
Để thêm vào một đoạn chờ vài giây giữa từng lần lặp, chúng ta chỉ cần ping chính máy của mình (172.0.0.1) nhiều lần tại mỗi lần lặp của toàn bộ vòng lặp, bằng cách thêm dòng “& ping –n 6 127.0.0.1 >nul” như sau:

C:\> for /L %i in (1,0,2) do @tasklist & ping --n 6 127.0.0.1 > nul
Do dòng lệnh của Windows không có chức năng cài sẵn là “ngủ” để chờ một khoảng trễ cho trước, chúng ta có thể dùng lệnh ping để tạo khỏng trễ này. Lệnh trên đây sẽ ping địa chỉ localhost sáu lần (-n 6), tạo ra một quãng trễ 5 giây ( cú ping đầu tiên sẽ xảy ra ngay lập tức, các lần ping sau sẽ lần lượt thực hiện cứ 1 giây một lần ping cho hết 5 lần là 5 giây). Chúng ta hướng kết xuất của lệnh ping ra nul để chúng không xuất hiện trên màn hình. Kết quả là ta có lệnh tasklist chạy cứ 5 giây một lần. Kỹ thuật này có thể được áp dụng để chạy lặp tất cả những lệnh mà chúng ta đã xem xét , giúp người dùng có thể khảo sát kỹ lưỡng hơn kết xuất. Có những cú pháp phức tạp hơn có thể thậm chí phân tích kết xuất của lệnh nhằm cho phép tạo các scripts phân tích hệ thống chi tiết, tuy nhiên những cú pháp này nằm ngoài giới hạn của loại bài viết này.

Khởi động giao diện đồ họa Quản trị bằng dòng lệnh.
Trong khi chế độ dòng lệnh của Windows có nhiều công cụ mạnh mẽ, thì đôi khi công cụ giao diện đồ họa GUI có thể làm tốt hơn dòng lệnh. Tuy nhiên, nhớ lại những vùng tối tăm nơi mà Microsoft đã chôn vùi những controls khác nhau trong GUI của nó là một công việc khiến ta hoang mang . 
May thay, người dùng không cần thiết đào bới  toàn bộ GUI để tìm những gì họ cần, thay vào đó họ có thể dựa vào các command-line shortcuts. Ví dụ như, thay vì chuẩn bị khởi động menu để tìm và chạy GUI quản trị người dùng tại chỗ, ta có thể nhảy về dấu nhắc lệnh gần nhất và gõ:

C:\> lusrmgr.msc
Có một loạt các GUI controls có thể được chạy trực tiếp từ dòng lệnh theo cách này, chúng giúp tiết kiệm nhiều thời gian. Đây là một vài controls yêu thích:

Secpol.msc: Đây là hệ quản trị chính sách an ninh tại chỗ, được dùng để cấu hình hàng trăm thiết lập an ninh cho máy.

Services.msc: Đây là lệnh chạy các dịch vụ bàn điều khiển GUI (control panel)

Control: Lệnh này xổ lên toàn bộ các công cụ có trên bàn điều khiển control panel

Taskmgr.exe: Lệnh này khởi động Task Manager

Explorer.exe: Để kích hoạt trình duyệt tệp Windows bằng tay, ta chạy lệnh này.

Eventvwr.msc: Lệnh này chạy Windows Event Viewer, rất tiện cho phân tích log.

Kết luận:

Đầu tiên, có vẻ như những lệnh Windows được trình bày trong bài tối nghĩa và khó nhớ. Tuy vậy, nếu thực hành siêng năng, những công cụ dòng lệnh Windows có thể giúp những người quản trị và chuyên viên an ninh vận dụng thêm nhiều quyền năng với máy tính chạy Windows của họ, cấu hình chúng an toàn hơn và phân tích chúng chi tiết hơn khi bị tấn công.


Về tác giả: 
Ed Skoudis là một giảng viên của tổ chức SANS và là nhà sáng lập, tư vấn  cao cấp về an toàn thông tin của Intelguardians, một công ty về An toàn thông tin có trụ sở ở DC. Chuyên môn sâu của ông bao gồm các phương thức  tấn công của hacker và cách phòng vệ, các vấn đề về ngành an toàn thông tin và computer privacy. Ông giành được các giải thưởng 2004,2005 và 2006 của Microsoft MVP về an ninh Windows Server.

Nguồn bài viết: vnisa

BÌNH LUẬN BÀI VIẾT

Bài viết mới nhất

LIKE BOX

Bài viết được xem nhiều nhất

HỌC HTML